UBND tỉnh Khánh Hòa vừa ban hành Kế hoạch số 4949/KH-UBND ngày 03/10/2025 rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo và xác định hộ làm nông, lâm, ngư và diêm nghiệp có mức sống trung bình, người lao động có thu nhập thấp trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa năm 2025 (sau đây gọi tắt là cuộc rà soát).
Rà soát thực tế hộ nghèo, hộ cận nghèo. Ảnh minh họa. Ảnh: baokhanhoa.vn.
Kế hoạch nhằm mục đích lập danh sách, phân loại chính xác, đầy đủ số liệu, thông tin cơ bản về hộ nghèo, hộ cận nghèo; xác định danh sách hộ làm nông, lâm, ngư và diêm nghiệp có mức sống trung bình và người lao động có thu nhập thấp trên phạm vi toàn tỉnh. Làm căn cứ để xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội trong năm 2026 và các năm tiếp theo. Đồng thời đánh giá kết quả thực hiện mục tiêu giảm nghèo năm 2025, theo chuẩn nghèo đa chiều quốc gia giai đoạn 2021 - 2025 quy định tại Nghị định số 07/2021/NĐ-CP ngày 27/01/2021 của Chính phủ; cung cấp dữ liệu hộ nghèo, hộ cận nghèo để xây dựng cơ sở dữ liệu về giảm nghèo, đồng bộ và kết nối với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Cuộc rà soát được triển khai thực hiện từ ngày 10-10-2025 đến hết ngày 14-12-2025 tại toàn bộ các xã, phường trên địa bàn toàn tỉnh và áp dụng cho các đối tượng: Hộ gia đình thuộc danh sách hộ nghèo, hộ cận nghèo do UBND cấp xã đang quản lý tại thời điểm rà soát; hộ gia đình có giấy đề nghị rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo theo quy định; các hộ làm nông, lâm, ngư và diêm nghiệp đang sinh sống trên địa bàn tỉnh có giấy đề nghị xác định là hộ có mức sống trung bình theo quy định; người lao động (không thuộc các hộ nêu trên) có giấy đề nghị xác nhận là người lao động có thu nhập thấp, đang cư trú tại các xã, phường trên địa bàn toàn tỉnh.
Về phương pháp rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo là phương pháp khảo sát thu thập thông tin của hộ gia đình để ước lượng thu nhập và xác định mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản của hộ nghèo, hộ cận nghèo, bảo đảm phù hợp với chuẩn nghèo theo quy định tại Điều 3 Nghị định số 07/2021/NĐ-CP, cụ thể: Mức thu nhập bình quân đầu người (gọi là điểm A), ở khu vực nông thôn, 140 điểm tương đương với mức thu nhập bình quân đầu người 1.500.000 đồng/người/tháng; ở khu vực thành thị, 175 điểm tương đương với mức thu nhập bình quân đầu người 2.000.000 đồng/người/tháng. Mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản (gọi là điểm B) được tính 10 điểm tương đương với 1 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản.
Việc phân loại hộ nghèo, hộ cận nghèo được xác định như sau:
- Hộ nghèo: hộ có điểm A ≤ 140 điểm và điểm B ≥ 30 điểm ở khu vực nông thôn hoặc có điểm A ≤ 175 điểm và điểm B ≥ 30 điểm ở khu vực thành thị;
- Hộ cận nghèo: hộ có điểm A ≤ 140 điểm và điểm B < 30 điểm ở khu vực nông thôn hoặc có điểm A ≤ 175 điểm và điểm B < 30 điểm ở khu vực thành thị.
Đối với phương pháp rà soát, phân loại hộ làm nông, lâm, ngư và diêm nghiệp có mức sống trung bình, người lao động có thu nhập thấp được xác định thu nhập của hộ gia đình trong vòng 12 tháng trước thời điểm rà soát, không tính khoản trợ cấp hoặc trợ giúp xã hội từ ngân sách nhà nước vào thu nhập của hộ gia đình. Theo đó, hộ có mức sống trung bình ở khu vực nông thôn là hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 1.500.000 đồng đến 2.250.000 đồng; ở khu vực thành thị là hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng. Chuẩn người lao động có thu nhập thấp ở khu vực nông thôn có mức thu nhập bình quân đầu người/tháng từ 2.250.000 đồng trở xuống; ở khu vực thành thị có mức thu nhập bình quân đầu người/tháng từ 3.000.000 đồng trở xuống.